HƯỚNG DẪN ĐƯA HÌNH ẢNH LÊN DIỄN ĐÀN - 08.2018 |
Hoa! |
Trả lời bài | Trang <123 |
Tác giả | |
tigonflowers
Thông tin thành viên
Gửi tin nhắn riêng
Tìm những bài viết của thành viên này
Thêm vào danh sách bạn bè
V.I.P Member Gia nhập: 17 Feb 2011 Địa chỉ: Saitamaken JP Status: Offline Points: 13 |
Tùy chọn đăng bài
Thanks(0)
|
Hôm nay lang thang đọc nguyên bài này của 1 tác giả viết về những loại hoa và thơ của hoa, thấy hay và đẹp nên góp nhặt vào đây, mong là tác giả vui lòng cho phép copy.
Hải đườngBy donga01Ở Việt Nam gần đây có một loại hoa Tết nhập về từ Đài Loan hay Trung Quốc, gọi là mai đỏ. Lúc mới nhìn tôi cứ tưởng là hải đường Nhật. Nhìn kỹ thì không phải. Hài đường Nhật hoa chỉ có 5 cánh, màu đỏ hay trắng. Nở cùng dịp với mộc liên, tân di, anh đào. Hải đường này ở Nhật không gọi là hải đường mà gọi là mộc qua. Cái tên này cũng hơi kỳ vì “qua” là dưa. Entry trước có nói về thu hải đường. Không biết tại sao hai loại hoa này lại cùng có tên là hải đường. Chúng rất khác nhau. Ở Việt Nam cũng có người nhầm hoa trà là hải đường. Nguyễn Du có viết: “Hải đường mơn mởn cành tơ / Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng”. Tôi cứ đợi chờ ngày mưa ngắm xem hoa hải đường như thế nào mà chưa được. Lúc có mưa thì hoặc là quên mất hoặc là hoa đã tàn.
Đây là hải đường trắng
Đây là hải đường đỏ
Còn đây là mai đỏ tôi chụp ở chợ hoa Tết 2009 Thu hải đườngBy donga01Đọc Phi hồ ngoại truyện của Kim Dung sẽ thấy có một loại hoa rất độc tên là thất tâm hải đường, mỗi cánh hoa có bảy chấm đỏ. Kim Dung viết chậu hoa thất tâm hải đường này trông rất giống thu hải đường. Tôi không biết thất tâm hải đường có thật không, nhưng thu hải đường là có thật. Cái tên thu hải đường nghe rất êm dịu và mỹ miều. Tôi nhớ như vậy vì hôm qua có một cây hoa tôi không biết tên. Bạn đọc blog của tôi cho biết là thu hải đường. Tôi mới chợt nhớ là hồi phố hoa ở Hà Nội, tôi có đi xem. Có mấy chậu hoa tôi không biết tên và tôi có hỏi mấy người bảo vệ tên hoa, nhưng họ đều không biết. Tôi có chụp ảnh lưu lại, và giờ đây tôi biết chúng là thu hải đường. Quảng quần phương phổ chép thu hải đường thành phụ lục của hải đường. Trong đó có bài thơ Vịnh thu hải đường của Du Uyển Luân đời nhà Minh: Bạc la sơ thí khiếp phong thê Tôi dịch thành thơ như sau: Lụa là ướm thử lạnh ghê chưa
Thu hải đường ở phố hoa Hà Nội (2009) Mộc liên lại nởBy donga01Mộc liên lại nở. Một năm đã trôi qua mà chẳng làm được gì. Rong chơi khắp chốn. Chẳng mấy chốc nữa là lại tiết “phong phiêu vạn điểm”. Tôi tính thời gian theo hoa nở, hoa tàn. Giở Quảng quần phương phổ thấy bài thơ tuyệt cú của Bạch Cư Di viết về mộc liên: Như chiết phù dung tài hạn địa Tôi dịch bài tuyệt cú này như sau: Như bẻ hoa sen trồng đất cạn Tôi không biết Bạch Lạc Thiên làm Thái thú khi nào. Chẳng biết có phải là lúc làm Tư mã ở Giang châu đã lưu lại một Tỳ bà hành buồn bã. Có lẽ không phải tự nói về mình. Người xưa đi về phương nam thấy hoa, tôi ngày nay lại ngược phương bắc để nhận ra mỗi năm gặp lại cố tri. Tôi rất thích quyển Quảng quần phương phổ. Đây là một bách khoa toàn thư về cây, hoa, quả của Trung Quốc. Nhưng nét đặc sắc của quyển sách này là trích dẫn rất nhiều thơ từ. Một bách khoa toàn thư đậm chất văn học thi ca. Nhân tiện nói về hoa, tôi thấy ở nơi làm việc có một loại hoa trồng cảnh trong nhà. Tôi không biết là hoa gì. Trông lá cành như cây bí ngô. Có ai biết tên cây hoa này không? Ảnh ở dưới đây
Lạp maiBy donga01Lần đầu tiên tôi nhìn thấy bông hoa này ở Trường cốc tự. Tôi không biết tên hoa là gì. Bông hoa trông như sáp ong vàng óng ả. Hôm nay qua Đông Ngự uyển, bắt gặp đúng bông hoa này. May quá Đông Ngự uyển có đề tên cây hoa. Mới biết hoa tên là lạp mai. Cái tên rất chuẩn. Trước nay mới biết từ “lạp chúc”, “bạch lạp”, giờ biết thêm “lạp mai”. Chợt nhớ tới câu “lạp chúc hữu tâm hoàn tích biệt”, nhìn nụ hoa lại tưởng giọt lệ đang rơi. Nếu người ta không đề tên hoa tôi có thể liên tưởng đến thế không? Chắc là không vì ở Trường cốc tự tôi cứ băn khoăn mãi không biết hoa tên gì, đâu có thể liên tưởng này nọ. Chỉ một bảng tên nho nhỏ, bỗng nhiên như cả một ký ức ập về. Lạ thật!
Lạp mai ở Đông Ngự uyển Mộc liênBy donga01 Hoa này tên gọi là mộc liên, có nghĩa là hoa sen trên cây, thuộc họ magnoliaceae, mà họ này lại có tên là mộc lan. Lằng nhằng như vậy, vì liên và lan rất dễ lẫn với nhau, nhưng một đằng có nghĩa là sen, một đằng có nghĩa là lan. Hoa này gần giống hoa trứng gà ở Việt Nam, nhưng cánh hoa dài hơn và bông hoa lớn hơn. Bạch Lạc Thiên có bài thơ Mộc phù dung hoa hạ chiêu khách ẩm nhắc đến hoa này: Vãn lương tư ẩm lưỡng tam bôi Có nghĩa là: Buổi chiều lành lạnh nghĩ tới uống vài chén rượu, vẫy được người khách rượu ở đầu sông, đừng sợ mùa thu không có vật say làm bạn, hoa sen nước đã tàn thì hoa mộc liên nở. Mùa thu hoa sen tàn thì đúng rồi, nhưng sao hoa mộc liên lại nở vào mùa thu? Mộc liên chẳng nở vào cuối xuân và tàn khi hạ sang sao? Hay có nhiều loại mộc liên khác nhau? Hoa sen có ba tên gọi: hà, liên, phù dung. Tôi thích nhất tên phù dung. Phù dung mường tượng như một người con gái yêu kiều lả lướt. Tôi không biết khi nào gọi là hà, khi nào gọi là liên và khi nào gọi là phù dung. Nhưng ở Việt Nam phân biệt rất rõ giữa sen và súng. Hoa súng được gọi là liên. Ngoài song hoa mộc liên đang rã cánh. Nhất phiến hoa phi giảm khước xuân…Phong phiêu vạn điểmBy donga01 Tôi chưa từng tới Trường An và cũng không biết ông Đỗ Phủ khi hạ bút viết “phong phiêu vạn điểm” là viết gió thổi vạn cánh hoa gì bay. Nhưng giờ tôi nghĩ rằng ông Đỗ Phủ viết về những cánh hoa anh đào. Mùa anh đào đang rộ nở. Mỗi đợt gió thổi cả vạn cánh hoa trắng muốt, xinh xinh bay lả tả khắp trời, phảng phất như những bông tuyết bay, nhưng lại nhẹ nhàng, uyển chuyển và mềm mại hơn. Ông Đỗ Phủ thật tài tình dùng chữ “phiêu”, chứ không dùng chữ “xuy” để nói tới cái nhẹ nhàng, mềm mại, êm ái của trận gió hoa. Những cánh hoa tàn tản mát khắp trời vẫn còn làm nên “hoa kinh nhãn”. Toàn Đường thi chép chữ kinh là chữ 經 (kinh lý), lại còn chú thêm có bản chép là chữ 驚 (kinh hãi). Không biết là hoa làm mát mắt hay hoa làm hãi mắt. Chỉ có vài chữ thôi mà thâu tóm tất cả những gì đang diễn ra trước mắt tôi. Thật đúng là “ngữ bất kinh nhân tử bất hưu”. Câu thơ làm kinh sợ cả người đời sau. Thấy cảnh là nhớ ngay tới chúng. Đôi khi tôi thấy mình cũng kỳ lạ, đang ngắm những cánh hoa bay lại nhớ tới câu thơ của Đỗ Phủ, chứ không phải của một nhà thơ Đông, Tây nào khác. Người đời thường bảo già thì hay nghĩ tới thơ Đỗ Phủ. Phải chăng già thật rồi. Câu thơ có bảy chữ, nhớ được bốn. Những chữ chưa nhớ tới là những chữ ẩn giấu trong cõi lòng. Lối đi dưới rặng anh đào trắng xóa những cánh hoa in dấu chân người ngẩn ngơ một mùa xuân lại sắp qua đi.Đỗ quyênBy donga01Tôi từng hứa sẽ viết về đỗ quyên cánh đơn. Hoa đỗ quyên cánh đơn chỉ có 5 cánh. Cây hoa đỗ quyên này thường mọc thành bụi, cao độ hơn nửa mét. Khi nở cả bụi nở trông rất đẹp. Tôi chưa thấy ai trồng trong chậu. Đỗ quyên bắt đầu trổ bông khi anh đào nở rộ. Bây giờ đỗ quyên tím và đỗ quyên đỏ đang úa dần, còn đỗ quyên trắng vẫn đang khoe sắc. Tôi không biết đỗ quyên này có bao nhiêu màu. Giữa tím và hồng trông khá na ná nhau. Tôi có cảm giác ban đầu hoa tím, sau đó nở rộ chuyển sang hồng. Hoa đỏ và hoa trắng giữ nguyên màu sắc từ lúc nở đến lúc tàn. Bài thơ này rút từ Cổ kim hòa ca tập của Nhật bản, bài số 495, khuyết danh: Ký ức ùa về Đây là bản dịch của tôi từ bản dịch tiếng Anh trong Kokinshu: A Collection of Poems Ancient and Modern do L. R. Rodd và M. C. Henkenius dịch: memories return Rất tiếc là tôi không dịch được từ nguyên bản tiếng Nhật. Bài thơ này nếu không biết xuất xứ khó có thể ngờ đấy lại là bài thơ về một mối tính đồng tính giữa một nhà sư và chú tiểu. Tất nhiên quan niệm về tình yêu đồng tính của Nhật Bản cổ xưa không giống như ngày nay. Hoa đỗ quyên trong bài thơ là hoa đỗ quyên đá (nham đỗ quyên), và về sau Kitamura Kigin đã lấy tên “Đỗ quyên đá” này để làm tên cho một tập thơ về đề tài đồng tính luyến ái. Núi Tokiwa không biết chắc chắn ở đâu, có thể ở Kyoto, theo chú thích trong bản tiếng Anh. “Toki wa” còn có nghĩa là “thời gian, khi”, và bản dịch tiếng Anh dịch thành evergreen, mãi xanh, như thời gian bất tận, không có điểm đầu, không có điểm cuối như tình yêu của con người. Phải nhìn thấy hoa đỗ quyên nở mới cảm nhận được hết bài thơ này. Đỗ quyên khi nở cả bụi cây bừng lên rực rỡ như tình yêu cháy bỏng nhưng lại âm thầm. Các nền văn hóa khác nhau đã dùng hoa đỗ quyên để hàm ý những thứ khác nhau. Việt Nam theo Trung Quốc nên liên tưởng đỗ quyên đến chim cuốc như nỗi lòng nhớ nước. Người Nhật lại thấy hoa đỗ quyên như một tình yêu cháy bỏng đầy hoài vọng âm thầm. Tử đằngBy donga01
Lý Bạch có bài thơ Tử đằng thụ: Tử đằng quải vân mộc Tôi dịch bài Cây tử đằng này thành thơ: Tử đằng treo chót vót Tôi bỗng nhận ra ở Việt Nam rất ít hoa mọc trong tự nhiên, hay chính xác hơn, ở thành phố thấy rất ít loại hoa nở ở những nơi công cộng. Có thể rừng Việt Nam có nhiều hoa, nhưng tôi lại chưa bao giờ vào rừng ở Việt Nam. Vào rừng ở Việt Nam có lẽ không an toàn vì dễ có những thứ vắt, rắn, rết. Người Việt chơi hoa không được tự nhiên. Chẳng hạn đào, quất cứ phải thiến đào, đảo quất để ép cây nở hoa hay ra quả vào một khoảng thời gian nhất định. Tưởng là hay, nhưng thực ra rất dở vì không thể nào tạo ra được một phố đào, phố quất. Dịp Tết tôi ra bãi Phúc Xá xem hoa đào, nhưng quả thật không thể nào đẹp bằng một rừng đào hay một bãi đào vì những cây đào ở Phúc Xá đều con con, mang tính bài trí trong nhà hơn là ở ngoài tự nhiên. Cứ tưởng Việt Nam có nhiều loại hoa đào, nhưng thực ra Việt Nam có rất ít loại hoa đào nếu so với các nước khác. Hay là xuân hết lại viết về đào.
Lệ đườngBy donga01Tôi tình cờ trông thấy hoa này ở vườn một ngôi nhà và chụp trộm qua hàng rào. Hoa lệ đường hay còn gọi là hoa hồng Nhật (kerria japonica) hay “sơn xuy”. Hoa thưởng nở vào dịp Phục Sinh nên còn có tên gọi hoa hồng Phục Sinh. Nhưng tôi thích cái tên “lệ đường” hơn cả, bởi vì tên này khiến tôi nghĩ tới một vẻ đẹp đường lệ (thực ra 2 chữ “lệ đường” này không có liên quan gì tới “đường lệ” vẻ đẹp, nhưng tôi lại liên tưởng như vậy). Hoa có màu vàng rực rỡ, trông giống thược dược hay mẫu đơn hơn là hoa hồng. Quảng quần phương phổ có chép bài thơ Đạo bàng lệ đường hoa, Hoa lệ đường bên đường của Phạm Thành Đại: Sạ tình phương thảo cạnh hoài tân Tôi dịch thành thơ như sau: Cỏ thơm mưa tạnh nhớ vô ngần Lệ đường nở hoa là mùa xuân hết. Hoa thuBy donga01Không phải là hoa mùa thu. Cây hoa này mang tên thu (thu tử hay thu thụ), đồng âm với mùa thu, nhưng thuộc bộ mộc. Cây hoa này cũng thuộc chi malus (malus prunifolia), nên có thể gọi là hải đường. Hoa này khác hoa hải đường (malus halliana), vẻ đẹp Dương Quý Phi, ở chỗ cánh hoa cứng cáp, hoa không rủ xuống đất và khi nở rộ chỉ hơi phơn phớt hồng, không được hồng thắm bằng hải đường. Tôi không muốn gọi bằng hải đường cho khỏi lẫn lộn các hoa với nhau. Quảng quần phương phổ có hai nhược điểm lớn: không có ảnh hay hình vẽ minh họa và không có tên khoa học cho các loại cây. Cả hai nhược điểm này đều dễ hiểu vì thưở xa xưa đấy người Trung Quốc chưa biết tên khoa học cũng như chụp ảnh. Quảng quần phương phổ miêu tả các loại cây căn cứ vào các sách vở về cây cỏ như Bản thảo. Đây là một bài thơ trong chùm bài Tam tuyệt cú của Đỗ Phủ, chép trong Quảng quần phương phổ về cây thu: Thu thụ hinh hương ỷ điếu ki Tôi dịch thành thơ như sau: Thơm ngát cây thu tựa đập câu Đỗ Phủ rất hiểu người ngắm hoa. Thà hoa bị gió thổi bay đi sạch khi mình còn đang say túy lúy, còn hơn để lúc tỉnh nhìn hoa bị mưa vùi dập tan tành. Say dưới gốc hoa có lẽ cũng là một thú tao nhã mà tôi chưa được tận hưởng. Người xưa có những niềm tận hưởng thật thú vị. Xử thế nhược đại mộng / Hồ vi lao kỳ sinh, Cuộc đời như một giấc mộng lớn, việc gì phải vất vả cuộc đời. Giá mà vác được laptop ra dưới gốc hoa ngồi làm việc thì hay biết mấy.
Anh đào cánh képBy donga01Đây là hoa anh đào cánh kép màu hồng, có tên là “quan sơn”. Anh đào quan sơn trông rất giống hoa đào ở Việt Nam. Điểm khác biệt là anh đào hoa mọc thành chùm và có cuống hoa dài. Cũng có loại màu trắng, thực ra là trắng hơi hơi phớt hồng, gọi là anh đào tùng nguyệt. Có lẽ hoa trông giống như mặt trăng trên cây tùng. Loại anh đào mọc thành chùm trông như một vòng tròn hay một vòng cung. Anh đào cánh kép nở là dấu hiệu mùa xuân sắp cạn ngày. Ở Việt Nam dùng hoa xoan rụng để tính mùa xuân. Bây giờ cũng không thấy mấy hoa xoan. Làm sao để biết xuân sắp hết ?
Hải đường By donga01 Hải đường này là loại hải đường thuộc chi Malus, khác với hải đường Nhật bản thuộc chi Chaenomeles. Thoạt nhìn có thể tưởng đây là anh đào. Cũng hoa thành chùm và cuống dài. Nhưng anh đào lại thuộc chi Prunus. Có một cách phân biệt đơn giản: anh đào ra hoa trước khi có lá, hoa tàn lá mới ra, còn hải đường có lá mới có hoa, và hoa thường rủ xuống đất. Hải đường này trông rất đẹp, hoa phơn phớt hồng, không rực rỡ như hoa đào, cánh hoa rất mỏng manh, không chắc chắn như hải đường Nhật. Mỗi một loài hoa, bên cạnh vẻ đẹp “vật chất” như màu sắc, hình dáng, hương thơm, còn có vẻ đẹp “văn hóa”. Vẻ đẹp “văn hóa” của hoa là những câu chuyện, sự tích, truyền thuyết, thi ca về hoa. Ngắm hoa là thưởng ngoạn cả hai vẻ đẹp như vậy của hoa. Hoa hải đường này thường được ví là vẻ đẹp của Dương Quý Phi. “Nhất chi hồng diễm lộ ngưng hương”, một cành hồng thắm đượm hương sương, hẳn là một cành hải đường. Một câu thơ đẹp lạ lùng như vẻ đẹp của hoa vậy. Cái vẻ đẹp này phải tới tay Lý Bạch mới được nên như vậy. Trong Quảng quần phương phổ có rất nhiều thơ về hải đường. Đây là bài thơ Hải đường của Tô Đông Pha: Đông phong niệu niệu phiếm sùng quang Tôi dịch thành thơ như sau: Ánh sáng bồng bềnh dịu gió đông Ngắm hoa là thứ việc có thể thấy không bao giờ chán.
Hoa đồng nội By donga01 Tôi không biết tiếng Việt gọi hoa này là gì. Có lẽ hoa này ở Việt Nam không có. Tên latin là veronica persica. Tên tiếng Anh là Persian speedwell hay bird’s eye. Có lẽ tên gọi “mắt chim” này là do hai cái nhị đen tròn. Hoa này rất nhỏ, đường kính có khi chưa đầy 1cm. Cây mọc lẫn trong cỏ, thuộc loại thân thảo. Một năm hoa chỉ nở một lần, vào cuối xuân. Tôi để ý đến hoa này vì bông hoa chỉ có 4 cánh. Các bông hoa phần lớn đều có tính đối xứng. Nếu không có hai cái nhị đen thì bông hoa này có thể coi thuộc nhóm đối xứng C4v (thực ra có một cánh hoa khác 3 cánh còn lại nhưng cứ giả sử chúng như nhau). Nhưng vì có hai nhị nên tính đối xứng quay hay tâm đối xứng bị phá vỡ, tức là nhóm đối xứng của hoa bị giảm xuống. Ngắm hoa cũng có thể thấy được nhiều điều. Không biết tên hoa cũng là một điều khó chịu. Người Nhật còn gọi hoa này là lưu ly Đường thảo, tinh đồng. Lưu ly có lẽ là do hoa có màu xanh lơ. Ngọc lưu ly có màu xanh như vậy. Tinh là sao, đồng là con ngươi, cái tên này có lẽ vì do hai cái nhị. Như vậy hoa này có thể có hai cách đặt tên: đặt theo màu sắc, đặt theo đặc điểm của hai cái nhị. Nếu gọi là lưu ly thì lẫn với hoa lưu ly. Còn gọi là lưu ly Đường thảo thì tên dài quá, không thích hợp. Gọi là tinh đồng thì không mấy người hiểu. Người Trung Quốc gọi hoa này theo hai cách: phiên âm tên latin thành “a lạp bá bà bà nạp” (cái tên này không thể ngửi được) và “thủy khổ tục” (cái tên này còn khó hiểu hơn tên của người Nhật). Người Nga phiên âm tên latin thành tên gọi. Hoa này không có trong Quảng quần phương phổ nên không có thơ. Không biết tiếng Việt nên gọi hoa là gì? Mắt chim, lưu ly thảo, lưu ly Ba Tư, song nhãn, điểm nhãn, điểu nhãn? Có khi mỗi một cái tên lại có thể sáng tác ra một sự tích về hoa. Anh đàoBy donga01
Hoa anh đào nhiều người nói đến. Đáng tiếc ở Hà Nội anh đào không ra hoa. Chẳng biết khi nào hoa anh đào có thể nở Hà Nội? Quảng quần phương phổ chép anh đào chung cùng quyển với thường lê, thường lệ, thạch lựu, không biết có phải là giống sakura như ở Nhật không. Hoa này nở cả cây thì đẹp, chứ tách từng bông ra thì cũng không đặc sắc. Quảng quần phương phổ cũng chép nhiều thơ về anh đào. Không biết ở Nhật có quyển nào tương tự như vậy viết về hoa ở Nhật không. Việt Nam thì không rồi. Đây là bài Hòa Bùi bộc xạ khán anh đào hoa, Cùng bộc xạ họ Bùi ngắm hoa anh đào, của Trương Tịch. Tạc nhật nam viên tân vũ hậu Người xưa ngắm hoa làm thơ, tôi nay ngắm hoa dịch thơ: Hôm trước vườn nam mới chớm mưa Người xưa có những thú vui thật tao nhã. Ngắm trăng, xem hoa, làm thơ, gảy đàn, ca hát. Tất cả đều do tự mình làm. Ngắm hoa cảm hứng thành thơ, rồi độ khúc để hát. Có thể bài thơ mình làm chưa được hay, khúc nhạc chưa được chỉnh, nhưng cảm hứng là của mình, chẳng phải vay mượn ai. Một thời đã chẳng bao giờ còn nữa. Hoa và thơ như một mối lương duyên. Xem hoa tôi đều cố tìm thơ về hoa. Rất may là có Quảng quần phương phổ nên cũng không mất công. Vừa ngắm hoa vừa đọc thơ cũng là một thú vui.
Đỗ quyênBy donga01Đỗ quyên nở hoa vào cuối xuân. Nghe nói khi nào cuốc kêu thì đỗ quyên nở hoa. Hoa đỏ như máu, như tiếng cuốc kêu rỏ máu. Ở Việt Nam đỗ quyên nở hoa cả vào dịp Tết. Như vậy đỗ quyên ở Việt Nam nở khác thời, không đợi cuốc kêu. Hoặc giả Việt Nam không có ai nhớ nước khóc rỏ máu để hoa nở nhớ người. Văn Thiên Tường có câu thơ: “Tòng kim biệt khước Giang Nam lộ / Hóa tác đề quyên đái huyết quy”, Từ nay giã biệt Giang Nam mãi / Hóa cuốc về kêu rỏ máu trường, câu thơ bi hùng. Quảng quần phương phổ nói rằng đỗ quyên còn có tên là sơn thạch lựu, ánh sơn hồng. Cứ nhớ thạch lựu (giống Phiên) là quả ổi. Không nhớ hoa ổi như thế nào, nhưng chắc chắn không phải màu đỏ. Hoa lựu màu đỏ, nở đầu mùa hè. Chợ vẫn còn bán lựu, nhưng không mấy ai ăn. Quảng quần phương phổ chép rất nhiều thơ về đỗ quyên. Nhật Bản có tập thơ Đỗ quyên đá, tập hợp các bài tanka về đề tài đồng tính luyến ái. Không rõ có liên quan như thế nào. Đây là một bài thơ được chép trong Quảng quần phương phổ. Bài thơ của Dương Vạn Lý có tên Đỗ quyên hoa: Khấp lộ đề hồng tác ma sanh Tôi dịch bài thơ này như sau: Rỏ máu khóc sương đâu cớ sanh “Khấp lộ” là giọt sương đọng như giọt nước mắt. Lý Hạ có câu thơ: “Phù dung khấp lộ, hương lan tiếu”. Giọt sương đậu trên lá sen như giọt nước mắt của hoa sen. “Khấp” là khóc không thành tiếng, “đề” là khóc thành tiếng. Khóc không ra tiếng thì nhỏ lệ, khóc thành tiếng thì thổ ra máu. Giọt sương trên cánh hoa, màu đỏ của hoa như nước mắt rơi, như máu rỏ. Ngắm hoa đỗ quyên mà thấy sợ trong lòng. Có hoa đỗ quyên màu trắng. Chẳng biết có ý tứ gì không? Chẳng biết có phải vậy mà lẵng hoa đỗ quyên đỏ cài xen đỗ quyên trắng? Táo dạiBy donga01Đây là hoa táo dại. Tên tiếng Anh thông dụng là Siberian crabapple, táo dại Siberi. Tiền tố crab không hiểu từ đâu mà có, và rất dễ cho rằng nó có liên quan gì đấy tới cua cáy, mặc dù những suy tưởng như vậy là không có cơ sở. Tên tiếng Nga không có gì liên quan tới crab. Hoa này không thơm, hơi hắc. Nếu như vậy thì chẳng có chuyện gì đáng nói. Cây táo dại này trong tiếng Trung gọi là sơn kinh tử. Cây kinh là cây gì và có lẽ chưa ai dịch cây kinh là cây táo dại. Khi Nguyễn Du ở Huế, ông có viết câu thơ: “Khai song kiến kinh kỷ” và thông thường được dịch là mở cửa sổ ra nhìn thấy gai góc. Nguyễn Du muốn nói thứ cây gì ở Huế? Bụi gai trồng bên song hay là một bụi táo dại? Bài thơ của Nguyễn Du có tên là Ngẫu thư công quán bích, Tình cờ đề lên bức vách ở công quán. Ngày xưa có vẻ thoải mái viết lên tường quán xá công cộng. Tập tục này không biết đến lúc nào thì bỏ. Ngày nay vô khách sạn viết lên tường chắc dễ bị bắt đền. Bài thơ như sau: Triêu xan nhất vu phạn Tôi dịch bài thơ này như sau: Sớm ăn một bát cơm Bài thơ này có cấu trúc mường tượng như Tiết phụ ngâm. Tiết phụ ngâm là bài ca ly khai sự cám dỗ của phú quý. Mỹ nhân du du cách cao tường lại như hàm ý muốn được trọng dụng. Đó như là một giấc mộng, nơi vẫn còn vương vấn tới quyền quý. Đến khi một tiếng cuốc kêu mới bừng tỉnh giấc mộng ngày xuân. Xuân đã hết. Hồn hề quy lai bi cố hương như một tiếng nấc trong lòng. Trong giấc mộng ngày xuân đó hồn có kịp tỉnh ra khỏi giấc mộng không? Nhưng thực ra hồn và mộng như hai mặt của một tờ giấy. Mộng hết thì hồn cũng không còn. Người ta thường bảo đêm dài nghe tiếng cuốc kêu không sao ngủ được. Nhưng ngày nay làm gì còn cuốc để mà trằn trọc suốt đêm thâu? Một bông hoa dại bên đường có thể làm nhớ đến một bài thơ.Dành dành saoBy donga01
Dành dành sao không phải là tên chính tắc của hoa này. Đấy là tên do tôi đặt. Hoa này thực chất là hoa dành dành cánh đơn, nhưng tôi không thích tên “cánh đơn” nên gọi là dành dành sao, một tên mô phỏng theo hoa nhài sao (Trachelospermum jasminoides). Dành dành sao cũng có hương thơm ngát. Bài haiku sau của Masaoka Shiki, một trong bốn nhà thơ haiku lớn nhất của Nhật Bản: haku tsukiyo hana kuchinashi no nioi keri Bản dịch của tôi: Đêm trăng bàng bạc Ở bài haiku này, ánh trăng trong đêm và hương hoa dành dành đều mỏng manh, bàng bạc. Tuy mỏng manh bàng bạc nhưng chúng không phải là vô định hình, không xác định hay khó nắm bắt. Ánh trăng trong đêm rất rõ ràng minh xác cũng như hoa dành dành đang đưa hương, một mùi hương nhẹ nhàng, thoang thoảng trong đêm thanh. Cái nhẹ nhàng, thanh tao không đồng nghĩa với phù du, bất định. Bài haiku này là sự cô đọng tinh túy cái nhẹ nhàng, thanh tao thường nhật quanh ta.
Hoa dành dànhBy donga01
Hoa này có nhiều tên gọi khác nhau: dành dành, nhài Thái, ngọc bút. Tôi gọi là dành dành. Tên khoa học là Gardenia jasminoides. Tuy thuộc chi Gardenia, nhưng hoa lại có thêm chữ jasminoides nên rất dễ liên tưởng tới hoa nhài. Hoa thơm phảng phất như hoa nhài, không nồng nàn như kim ngân. Mỗi hoa có mùi hương khác nhau, nhưng làm thế nào miêu tả chính xác được mùi hương? Người Nhật và người Trung quốc đều gọi hoa này là hoa chi (kuchinashi) hay “chi tử”. Hoa này có hai loại khác hẳn nhau: cách kép và cánh đơn. Bài tanka sau ở trong Cổ kim Hòa ca tập, bài số 1026, khuyết danh: Miminashi no Bản dịch tiếng Anh trong quyển Kokinshu: A Collection of Poems Ancient and Modern if only I could Tôi dịch với trợ giúp của bản dịch tiếng Anh: Trên núi Miminashi Núi Miminashi ở vùng Nara nơi nổi tiếng có hoa dành dành. Cây dành dành dùng để nhuộm vải vóc. Tôi không rõ là dùng hoa hay dùng hạt dành dành để nhuộm. Theo bản dịch tiếng Anh “omo(h)i” có chứa từ “hi” chỉ màu đỏ tươi. Tiếng Nhật viết “omoi” là “tư-hi”(思ひ) chỉ nhung nhớ, nhớ thương. “Hi” còn được giải nghĩa là “phi”(緋) tức lụa đào, thứ lụa có màu đỏ thắm. Tôi nghĩ “nhớ nhung” ở đây phiếm chỉ màu đỏ thắm. Giá được những bông dành dành trên núi Miminashi để nhuộm màu đỏ thắm nhung nhớ. Màu đỏ được ẩn trong nỗi niềm nhung nhớ và cháy bỏng. Hay nỗi niềm nhung nhớ và cháy bỏng ẩn dấu trong tấm áo lụa đào đỏ thắm được nhuộm từ những bông hay hạt dành dành trên đỉnh Miminashi. Người cứ buồn thương cỏ cứ xanhBy donga01
Tôi chợt nhớ tới câu thơ này của Nguyễn Du: Nhân tự bi thê thảo tự thanh. Người cứ buồn thương cỏ cứ xanh là câu thơ dịch của tôi nhiều năm trước đây. Cỏ cứ bời bời tươi tốt mà con người cứ buồn thương vô hạn. Tôi không biết tại sao xanh tươi lại cứ đối nghịch với buồn thương. Không có nỗi buồn màu xanh ngút ngàn trải tận cuối chân mây hay sao? Màu thời gian không xanh, màu thời gian tím ngắt. Nếu có chìm đắm trong tâm tưởng về một quá khứ đã qua, nơi đấy thời gian cũng không có màu xanh ngút ngàn. Bài thơ của Nguyễn Du mà tôi dịch cách đây cũng đã lâu là bài Thanh minh ngẫu hứng. Tiết Thanh minh đã qua lâu rồi, hôm nay đã là ngày Hạ chí. Đông phong trú dạ động giang thành Bản dịch thơ của tôi: Gió đông sớm tối lộng bên thành Bài thơ này có hai lần nhắc đến cỏ. Cỏ cứ xanh và chớ để cỏ mọc gần thềm nhà. Cỏ như một đối lập của chính nhân. Cây cỏ bé nhỏ nhưng lại đa nghĩa. Tìm hiểu về cỏ cây hoa lá xứ lạ tôi nhận thấy rất khó biết được tên các loại cỏ. Chúng giống nhau và cũng rất khác nhau. Có nhiều loại cỏ khác nhau, nhưng tôi chịu không thể tra được tên gọi của chúng. Cỏ trong ảnh ở trên là một loại, cỏ trong ảnh ở dưới là loại khác. Trong ảnh ở dưới cỏ tai hổ được trồng lẫn vào đám cỏ xanh. Lá cỏ tai hổ bị chìm khuất dưới đám cỏ xanh nên không trông thấy. Những bông hoa cỏ tai hổ trông như những cánh cò trắng đang đậu trong rặng tre xanh ngát. Đấy là tưởng tượng của tôi khi chụp tấm hình này. Tước mạchBy donga01
Thông thường chẳng mấy ai để ý tới các loại cây cỏ kiểu này. Chúng mọc hoang bên vệ đường, bãi cỏ, lẫn trong các loại cây cỏ. Người đời chỉ quan tâm tới phương thảo, Ngu cơ thảo chứ có ai thèm nhìn chúng. Phận cỏ đã loi choi dưới thấp, lại không có kỳ tích, vẻ đẹp, khó mà được để ý tới. Đây là cỏ tước mạch. Tên khoa học là Bromus japonicus. “Tước mạch” là tên gọi của người Trung Quốc. Người Nhật gọi cỏ này là “tước trà vãn” (suzume-no-chahiki). Tước là chim sẻ. Quảng quần phương phổ giải thích rằng hạt của cây cỏ này là thứ mà chim sẻ, chim yến ăn. Tên của cỏ là do vậy. Cũng vì vậy mà cây cỏ này còn có tên là “yến mạch”, nhưng không phải thứ “yến mạch” thông thường. Tôi nghĩ gọi là “cỏ” có khi không được chính xác lắm. Gọi là “lúa tước mạch” có khi chuẩn hơn. Quảng quần phương phổ thông thường chép rất nhiều thơ, nhưng với tước mạch thì lại chẳng có một câu thơ nào. Ai có cảm hứng với tước mạch chứ?
Hoa quỳBy donga01
Đây là hoa quỳ. Người Nhật gọi là “lập quỳ” (tachi-aoi), người Trung Quốc gọi là “Thục quỳ”, người Anh gọi là hollyhock. “Lập” có nghĩa là đứng thẳng, bởi vì cây hoa mọc vươn cao khá là thẳng đứng. “Thục quỳ” có nghĩa là hoa quỳ đất Thục. Tôi gọi đơn giản là hoa quỳ. Tên khoa học là Alcea rosea. Loại hoa này thuộc chi khác với dã quỳ ở Việt Nam. Cây thân thảo. Hoa có nhiều màu sắc khác nhau từ trắng đến hồng, đỏ, tím và pha màu lẫn nhau. Masaoka Shiki, nhà thơ cuối cùng trong danh sách “tứ đại bài nhân”, bốn nhà thơ haiku lớn nhất của Nhật có bài haiku sau: nobikitte Một bản dịch tiếng Anh như sau: a hollyhock Còn đây là bản dịch của tôi: Cố vươn lên Cây hoa quỳ vốn mọc thẳng, như vươn lên trời xanh. Ngày hạ chí là ngày mà mặt trời ở xa trái đất nhất. Tác giả thấy dường như cây hoa quỳ cố gắng vươn hết mình để đón ngày hạ chí. Một bài haiku khá hay của ngày hè.
Chua me đấtBy donga01
Cây chua me đất có nhiều loại khác nhau. Có loại hoa vàng, có loại hoa tím. Có loại lá xanh, có loại lá tím. Chúng đều thuộc chi Oxalis. Đặc điểm chung của cây chua me đất là có vị chua, và vì vậy mà chúng có tên chua me. Tiếng Nhật gọi cây chua me đất là “tạc tương thảo”. “Tạc tương” là một thứ nước chua. Lá của cây này là lá phức, thường có 3 lá, nhưng chúng không thuộc chi cỏ ba lá. Cây chua me đất hoa vàng lá xanh ở trên có tên khoa học là Oxalis corniculata, tôi gọi là “chua me đất”. Cây chua me đất hoa vàng, lá tím ở dưới có tên khoa học là Oxalis corniculata f. rubrifolia tôi gọi là “chua me đất tía”. Cây chua me đất hoa tím, lá xanh ở dưới có tên khoa học là Oxalis articulata tôi gọi là “chua me đất tím”. Iwama Otsuni có bài haiku sau: katabami no hana amefuru to naku suzume Tôi dịch như sau: Chua me đất nở hoa Tiếng sẻ kêu trong mưa nghe rất tội nghiệp, tuy không phải là tiếng kêu buồn thảm. Có chút gì đó lo âu, thảng thốt. Giống như hoa chua me đất trong mưa xơ xác tơi bời. Phải chăng đặc điểm này giống như cỏ bợ ở Việt Nam?
Thài lài tímBy donga01
Đây là loại cỏ mọc hoang dã. Tên khoa học là Tradescantia sp. Cái tên “thài lài tím” là tên ngoại suy. Thông thường “thài lài” là tên gọi loại cỏ thuộc chi Commelia. Điểm này cũng tương tự như trong tiếng Nhật. Cây cỏ này trong tiếng Nhật gọi là “tử lộ thảo”, có nghĩa là cỏ sương móc tím. “Lộ thảo” cũng là tên để gọi cho loại cỏ thuộc chi Commelia. Cây cỏ này còn được gọi là “rau trai”, có lẽ bắt nguồn từ tên gọi trong tiếng Trung Quốc “bạng thảo”. Cũng giống như một số cây cỏ khác, rất kho truy được từ nguyên của “thài lài”. Cây cỏ này trong tiếng Anh là spiderwort. Tiếng Việt có câu tục ngữ “Gái gặp hơi trai như thài lài gặp cứt chó. Trai phải hơi vợ như cò bợ phải trời mưa”. Cây thài lài gặp cứt chó thì tươi tốt, phổng phao. Giờ tôi có thể hình dung câu tục ngữ này rất trực quan. Tôi chưa trông thấy con cò bợ bao giờ. Cò bợ chắc hẳn là loại cỏ rũ rượi xác xơ, vì có câu “say lử cò bợ”. Cò gặp trời mưa đã rũ rượi rồi, cò bợ gặp trời mưa thì chắc phải phờ phạc bội phần. Câu tục ngữ này là kinh nghiệm dân gian được đúc kết cả ngàn đời. Ông bà ngày xưa nhiều khi cũng cay nghiệt. Câu tục ngữ này dù sao cũng có ý nghĩa tiêu cực cho phái nữ.
Hoa không mộcBy donga01
Đây là hoa không mộc mà tôi có nhắc đến khi nói về hoa cẩm đái. Hoa nở thành chùm, trắng muốt, trông rất đẹp. Nhiều nhà thơ Nhật đã ví hoa như những bông tuyết mùa hạ trên cây. Đây cũng là hoa hay được các nhà thơ Nhật nói đến trong thơ ca của mình. Tên khoa học của hoa là Deutzia crenata, thuộc chi hoàn toàn khác so với hoa cẩm đái, mặc dù người Nhật vẫn gọi hoa cẩm đái là hoa không mộc. Issa có bài haiku sau: nedoko miru hodo wa u no hana akari kana Bản dịch tiếng Anh của D.G. Lanoue enough light Bản dịch của tôi: Trong phòng ngủ Ở bài haiku này phòng ngủ đang chìm trong bóng tối, con mắt của nhà thơ đang quen với bóng tối, nhìn thấy chùm hoa không mộc trắng muốt ở bên ngoài, được phản chiếu bởi ánh trăng sao, như có cảm giác chùm hoa không mộc đang chiếu sáng cho căn phòng ngủ tăm tối. Hoa không mộc không phải là nguồn sáng, nhưng vì màu trắng tinh khiết của chúng mà tạo ra cảm giác về chiếu sáng. Màu sắc của hoa là hiệu ứng quang học trong cảm xúc thi ca của bài haiku này.
Hoa cẩm đáiBy donga01
Hoa này có tên khoa học là Weigela florida. Tôi gọi là hoa cẩm đái, giống như người Trung Quốc gọi. Người Nhật gọi là “đại hồng không mộc”. tức là hoa không mộc đỏ lớn. Tôi không gọi là hoa không mộc vì hai chữ “không mộc” tôi để gọi một loại hoa khác. “Cẩm đái” có nghĩa là dải gấm. Hoa nở theo từng chùm trải dài trên một nhánh cây bụi, có thể hình dung như một dải gấm. Nhưng không hiểu sao mỗi khi lại gần bụi hoa này tôi toàn bị sổ mũi. Không biết có phải dị ứng với phấn hoa hoa này không. Issa có bài haiku sau: u no hana ni hitorikiri no torii kana Bản dịch tiếng Anh của D.G. Lanoue: amid deutzia blossoms Tôi dịch như sau: Hoa không mộc nở Hoa cẩm đái trong tiếng Nhật là utsugi (không mộc), có thể gọi là u no hana. U no hana lại thường được chỉ một loại hoa không mộc khác có màu trắng, mà tên trong tiếng Anh là deutzia, loại hoa mà tôi gọi là không mộc. Theo chú thích trong bản dịch tiếng Anh, Hitorikiri là tên một nhà tu hành được đặt tên cho một cổng đền Thần đạo, nhưng hitorikiri lại có nghĩa là “all alone”. Bản dịch tiếng Anh là như vậy. Tori là cách gọi cổng đền Thần đạo của Nhật. Cái cổng này rất đặc biệt và nét đặc trưng của văn hóa Nhật. Những bông hoa không mộc nở xôm tụ như một sự đối lập với cổng đền trơ trọi lẻ loi. Cỏ hồ điệpBy donga01Cây hoa này có tên gọi là hồ điệp thảo hay là cỏ hồ điệp. Bông hoa trông rất giống con bướm. Tôi không gọi là “hoa bướm” để khỏi lẫn với hoa pansee. Ngoài hoa pansee tôi còn nhớ có một loại hoa dại màu vàng, có gai, mọc hoang ở triền đê, cũng được gọi là hoa bướm. Tên khoa học của cỏ hồ điệp là Gaura lindheimeri. Hoa màu trắng còn gọi là bạch điệp thảo hay cỏ bướm trắng. Tôi thử tìm xem có bài thơ nào nhắc tới hoa này không thì không tìm được. Không biết là tại tôi tìm chưa kỹ hay là hoa này không tạo ra cảm hứng cho thi nhân. Tôi thấy cũng kỳ lạ vì hoa bìm bìm trông không được đặc sắc bằng mà lại được nhiều thơ nhắc đến. (trích http://donga01.wordpress.com) Đã được chỉnh sửa bởi tigonflowers - 10 Sep 2011 lúc 12:48am |
|
Trả lời bài | Trang <123 |
Tweet
|
Di chuyển nhanh | Những sự cho phép của diễn đàn Bạn Không thể Đăng chủ đề mới trong diễn đàn này Bạn Không thể Trả lời chủ đề trong diễn đàn này Bạn Không thể Xoá bài của bạn Bạn Không thể Chỉnh sửa bài viết của bạn Bạn Không thể Tạo bình chọn diễn đàn này Bạn Không thể Bỏ phiếu bình chọn |