Thực hiện chủ trương chuyển đổi dần diện tích trồng lúa năng suất thấp sang cây trồn, vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao, diện tích trồng lúa đang giảm chuyển sang cây trồng khác có giá trị kinh tế cao hơn như cây rau, cây hoa…. Cùng với việc tăng diện tích gieo trồng và hình thành nên những vùng chuyên canh rau tập trung như rau muống nước (Bình Mỹ, Nhị Bình, Thạnh Xuân…), cây cải bông, khổ qua, dưa leo (Xuân Thới Sơn, Xuân Thới Thượng…), cây cải củ (Tân Thông Hội), đậu đũa, đậu cove, ớt, bầu, bí, cà tím (Nhuận Đức, Trung Lập Hạ…), rau ăn lá ngắn ngày (Tân Phú Trung, Đông Thạnh, Tân Quí Tây, Bình Chánh …)…, thì sinh vật hại ngày càng phát sinh, phát triển và khó phòng trị. Để hạn chế thiệt hại do sinh vật hại nông dân thường sử dụng thuốc BVTV để phòng trừ. Vì vậy, nếu sử dụng thuốc BVTV không đúng rau tiềm ẩn nguy cơ ngộ độc thuốc BVTV rất cao, đặc biệt là ở vụ đông xuân là thời vụ thuận lợi cho sinh trưởng phát triển của nhiều loài dịch hại. Nhằm giúp bà con nông dân thành phố sản xuất vụ đông xuân 2007-2008 đạt năng suất, hiệu quả và có sản phẩm an toàn, chúng tôi cung cấp một số thông tin về dự báo tình hình sinh vật hại rau và biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp vụ đông xuân 2007-2008: I. TÌNH HÌNH CHUNG - Tình hình thời tiết diễn biến phức tạp, mùa mưa năm nay kết thúc trễ và trong tháng 10, tháng 11 có những đợt mưa, bão trùng với triều cường nên tiến độ xuống giống cây trồng cạn chậm hơn. - Giá cả vật tư, phân bón biến động ở mức cao đã ảnh hưởng nhất định đến giá thành sản xuất và thu nhập của nông dân. - Giá một số loại rau, nhất là cà chua, khổ qua, dưa leo, đậu cove, xà lách…. có thể tăng vào thời điểm trước tết và ở cuối vụ đông xuân. II. THÀNH PHẦN SINH VẬT HẠI RAU 1. Nhóm rau muống nước và rau nhút: - Ốc bươu vàng vẫn tồn tại trên ao sen, ao súng, ruộng rau muống và ruộng rau nhút. Ốc sẽ gây thiệt hại nặng mầm rau nếu có mật độ 5-7 con/m2. - Trong điều kiện khô nóng rầy xám, sâu khoang là đối tượng gây hại nặng nhưng trời nóng, mưa nhiều, đất ẩm thấp bệnh thối gốc sẽ phát sinh nhiều và khi nhiệt độ tương đối thấp, ẩm độ cao, có mưa thì bệnh gỉ trắng sẽ gây hại nặng. 2. Cây cải bông, cây cải củ và các loại cải ăn lá ngắn ngày họ hoa thập tự như cải xanh, cải thìa, cải bẹ ngọt, cải ngọt bông: - Bọ nhảy gây hại nặng nếu trời nóng và khô. Thành trùng bọ nhảy gây hại nặng cải ăn lá ngắn ngày trong khí đó ấu trùng bọ nhảy sẽ gây hại nặng cây củ cải. - Sâu đục nõn sẽ gây thiệt hại nặng cho năng suất khi cải ăn lá ngắn ngày còn nhỏ hoặc khi cải bông chuẩn bị ra bông và sẽ rất khó diệt trừ nếu sâu đã đục vào trong đọt. - Sâu tơ chỉ gây hại cây họ hoa thập tự, sâu phá hại nặng khi trời lạnh và mát, nhất là từ tháng 11 đến hết tháng 2 năm sau. Tuy sâu thường gây hại nặng trong giai đoạn phát triển thân lá nhưng nặng nhất là thời gian thu hoạch. - Bệnh thối nhũn do vi khuẩn và do nấm phát triển thích hợp ở điều kiện nóng ấm, ẩm độ cao. 3. Cây khổ qua, cây dưa leo và các cây bầu, bí, mướp: - Sâu xanh 2 sọc trắng gây hại khổ qua, dưa leo, sâu gây hại từ cây con, đọt non, lá và trái. Sâu gâu thiệt hại năng suất, giá trị thưong phẩm khi tấn công giai đoạn cho trái. - Ruồi đục quả phá hại nhiều loài cây họ bầu bí như dưa leo, khổ qua, bầu, bí, mướp. Ruồi thường đẻ trứng và phá hại từ khi quả già đến chín. - Bọ xít mướp thường phát triển nhiều trên cây mướp, ngoài ra còn sinh sống và phát hại trên các cây họ bầu bí khác. - Bệnh phấn vàng (bệnh sương mai) thường phát triển mạnh trong điều kiện ẩm độ cao, mưa nhiều hoặc ban đêm có nhiều sương. 4. Đậu cove, đậu đũa: - Ruồi đục thân (dòi đục thân) thường phá hại nặng khi đậu mới có 1 – 2 lá thật tại ruộng gieo trồng sớm và khi trời nóng, ẩm, có sương hoặc mưa nhẹ. - Sâu đục trái ăn các nụ, hoa, quả, lá non và các chồi cây đậu và trong các vụ đậu vụ đông xuân thường bị sâu gây hại nặng nhất. 5. Cây ớt: - Bệnh thán thư phát sinh, phát triển khi thời tiết nóng, ẩm độ cao (mưa nhiều hoặc có sương mù) và gây hại nặng trái ớt. - Các bệnh do virus như bệnh khảm do các loại rầy, rệp lan truyền; bệnh đốm gân lá lan truyền do các loại rệp, bọ trĩ và bệnh xoăn lá lan truyền chủ yếu do rầy và bọ phấn. 6. Cây măng tây: - Tuyến trùng hại măng. - Nhóm côn trùng chích hút (bọ trĩ….). - Bệnh do nấm. 7. Một số sinh vật hại khác: Một số loài côn trùng không chuyên tính, có thể sống trên nhiều họ thực vật như sâu khoang…, chúng được gọi là “loài ăn rộng” hoặc loài “đa thực”. Tuy nhiên, khi sống trên các loài cây trồng khác nhau thì khả năng sinh sản phát triển của các loài sâu hại này cũng khác nhau. - Rệp muội (rệp bông, rầy mềm), trong điều kiện nhiệt đới nóng, ẩm rệp thường sinh sản theo kiểu đơn tính và đẻ con do vậy trong một thời gian rất ngắn mật độ có rệp có thể sẽ dày đặc ở ngọn, trên trái non và mặt dưới lá. - Ruồi đục lá (dòi đục lá, sâu vẽ bùa) là dịch hại gây hại nặng các cây cà chua, đậu đũa, đậu cove, dưa leo, khổ qua, bầu, bí, mướp….Ruồi đục lá xuất hiện nhiều lứa trong 1 vụ rau nhưng thường gây hại nặng khi nắng, nóng. - Bọ trĩ, nhện đỏ là dịch hại quan trọng cây họ đậu, họ bầu bí, họ cà…gây hại nặng trong điều kiện nóng, ấm, khô. Bọ trĩ hường phát triển gây hại nặng ở thời kỳ cây con. Nhện đỏ thường phát sinh phá hại nặng khi cây đã lớn, ra hoa, ra trái. - Bọ phấn gây hại cà chua, cà tím, ớt. Bọ phấn thường gây hại trong mùa khô, chúng phân tán trên phạm vi rộng nhờ gió. - Sâu khoang còn được gọi là sâu ăn tạp gây hại tất cả các loại rau, là đối tượng gây hại nặng trên rau muống. Sâu non tuổi nhỏ thường gây hại nghiêm trọng nhất bởi vì hàng trăm con sâu non tập trung ăn hại lá cây và nhanh chóng làm lá cây xơ xác. Sâu còn có thể gặm vỏ, quả làm giảm phẩm chất. - Rầy xanh lá mạ và rầy xanh 2 chấm nhỏ thường cùng phát sinh gây hại trên một số cây trồng như ớt, đậu, cà chua, cà tím…. Rầy xanh lá mạ và rầy xanh 2 chấm nhỏ có thể phá hại trong điều kiện thời tiết khô và nóng từ khi cây còn nhỏ đến thu hoạch. III. BIỆN PHÁP QUẢN LÝ DỊCH HẠI TỒNG HỢP (IPM) 1. Thời vụ: Thời vụ gieo trồng theo nông lịch vụ đông xuân được xác định từ ngày 01/10/2007 đến 31/03/2008. Bố trí công thức luân canh cây trồng hợp lý và nên luân canh với cây khác họ như lứa rau thứ nhất trồng các loại rau ăn lá, ăn bông (cải ..), lứa rau thứ hai trồng đậu và lứa rau thứ ba trồng dưa để luân canh và tận dụng chà le, màng phủ… 2. Vệ sinh đồng ruộng: Loại bỏ các cây (hoặc các phần cây) bị nhiễm bệnh trên đồng ruộng, thu gom tập trung và và xử lý sẽ giúp ngắn ngừa sự lan truyền của các tác nhân gây bệnh tới các cây khỏe. - Xử lý đất, phơi ải, ngâm ruộng để diệt mầm bệnh và nhộng, sâu ở trong đất. - Tỉa bỏ lá già, sâu bệnh, dọn sạch cỏ dại trong ruộng rau để tạo sự thông thoáng. 3. Giống - kỹ thuật trồng: - Chọn giống có thời vụ gieo trồng quanh năm- vụ chính đông xuân, chống chịu sâu bệnh, sạch bệnh, không lép lững và được thị trường ưa chuộng. - Gieo ươn cây con bằng khay, bầu để tạo cây con khỏe mạnh và rút ngắn thời gian hiện diện cây trên đồng ruộng để giảm áp lực sâu bệnh trong thời điểm thu hoạch và gần cuối vụ. - Mật độ trồng nên theo đúng khuyến cáo ghi trên bao bì không trồng dày vừa tốn giống, vừa làm tăng số lượng côn trùng gây hại nhưng nếu quá thưa sẽ lãng phí đất và tăng làm chi phí tưới nước, phòng trừ cỏ dại. 4. Quản lý nước: - Biện pháp quan trọng nhất là đảm bảo thoát nước để giữ cho đất quanh rễ không bị úng nước nhằm ngăn ngừa thối rễ là trồng cây trên luống đã được tôn cao có thể cũng giúp làm giảm độ ẩm của đất. Nếu đất quá ẩm hãy đào rãnh sâu hơn độ sâu của bộ rễ để giúp cho việc thoátt nước được dễ dàng hơn. - Giữ cho tán lá được khô cũng rất quan trọng vì các vật liệu nhiễm bệnh hoặc dịch khuẩn của các tác nhân gây bệnh có trong nước sẽ lan truyền từ lá cây nhiễm bệnh tới lá cây khỏe qua các gọi nước và các nấm gây bệnh cần nước để nảy mầm và xâm nhập vào lá. - Tưới phun mưa sẽ rửa trôi sâu non khỏi lá và bị dìm chết. Ngăn cản trưởng thành giao phối, đẻ trứng thì tưới phun mưa vào buổi chiều (sâu tơ) hoặc vào khoảng 22 giờ (sâu đục trái đậu)…..Tuy nhiên nếu bệnh hại xuất hiện trên ruộng việc tưới phun mưa se giúp bệnh lan truyền dễ hơn theo những giợt nước bắn đi khi tưới.. 5. Phân bón: - Phân hữu cơ có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hạn chế các loại bệnh do nấm trong đất gây ra. Phân hữu cơ cung cấp lượng vi sinh vật đất có nhiệm vụ “đệm” hay điều hoà vi sinh vật đất. Trong nhiều trường hợp các vi sinh vật đối kháng như nấm Trichoderma, …giữ vai trò cạnh tranh với vi sinh vật gây bệnh. Ví dụ trong đất vô trùng thì bệnh hại trong đất phát triển nhanh hơn so với đất tự nhiên. Vì vậy việc tận dụng những phế phẩm nông nghiệp, chất thải gia súc làm phần hữu cơ ủ hoại mục để bón lót cho cây vừa cải tạo độ màu mỡ của đất, giảm chi phí sử dụng phân bón, giảm ô nhiễm ô trường. - Bón phân đủ liều lượng, tỷ lệ N-P-K , thời gian bón thích hợp cho từng loại cây trồng, đất, mùa vụ và không được bón N trước thu hoạch 10 ngày. 6. Phòng trừ sinh vật hại xuất hiện trên đồng ruộng: - Xen canh có nghĩa là trồng cùng lúc hai hoặc nhiều hơn hai cây trên cùng một ruộng (còn gọi là trồng hỗn hợp hay trồng nhiều loại cây) để hạn chế sự truyền lan từ cây này sang cây khác hoặc sâu hại khó tìm ra cây chủ và một số cây trồng xen bài tiết ra các hoá chất hoặc mùi khó chịu ngăn ngừa các xôn trùng xâm nhập. - Sử dụng các loại bẫy bã như bẫy chua ngọt, bẫy dính, bẫy pheromone để bắt côn trùng trưởng thành. - Dùng lưới chắn côn trùng và sử dụng màng phủ đất để hạn chế cỏ dại và một số dịch bệnh trong đất. - Kiểm tra đồng ruộng phát hiện và phòng trừ kịp thời khi bệnh chớm phát (khi nấm mới xâm nhiễm) và sâu còn nhỏ (sâu tuổi 1 đến tuổi 3). Phun thuốc trừ bệnh khi bệnh chớm phát (nấm mới xâm nhiễm) - Sử dụng thuốc BVTV khi thật cần thiết và cần phải theo nguyên tắc 4 đúng đó là đúng thuốc, đúng lúc, đúng liều lượng và đúng cách. KS. Nguyễn Thị Lệ Thoa |